Sự góp sức của Bắc Âu (1595 – thế kỷ XVII) Thời_đại_Khám_phá

Năm 1570 (20 tháng 5) Gilles Coppens de Diest tại Antwerp xuất bản 53 tấm bản đồ bởi Abraham Ortelius dưới nhan đề Theatrum Orbis Terrarum, được coi là "tấm atlas hiện đại đầu tiên". Ba ấn bản La-tinh (bên cạnh một bản Hà Lan, một bản Pháp và một bản Đức) tồn tại trước cuối năm 1572; tấm atlas còn được đòi hỏi vào năm 1612. Đây là bản đồ thế giới của tấm atlas.

Các nước ngoại Iberia không thừa nhận Hiệp ước Tordesillas. Pháp, Hà Lan và Anh cũng có truyền thống hàng hải lâu đời. Bất chấp sự bưng bít của người Iberia, các công nghệ và bản đồ mới đã sớm lan tới phía bắc.

Năm 1568, người Hà Lan nổi dậy chống Philip II xứ Tây Ban Nha dẫn đến Chiến tranh Tám mươi năm. Chiến tranh giữa Anh và Tây Ban Nha cũng nổ ra. Năm 1580 Philip II trở thành Vua Bồ Đào Nha, với tư cách là người thừa kế Vương miện.

Quân đội của Philip đánh chiếm các thành phố then chốt BrugesGhent. Antwerp, khi đó là hải cảng quan trọng bậc nhất trên thế giới, bị chiếm vào năm 1585. Dân Kháng Cách được trao hai năm để giải quyết thủ tục trước khi rời khỏi thành phố.[70] Nhiều người tái định cư ở Amsterdam. Những người này chủ yếu là thợ thủ công lành nghề, thương nhân giàu có của các thành phố cảng và người tị nạn chạy trốn khỏi cuộc đàn áp tôn giáo, đặc biệt là người Do Thái Sephardi từ Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha, và sau đó, người Huguenots từ Pháp. Những Cha Hành Hương cũng dành thời gian ở đó trước khi đến Thế giới mới. Cuộc di dân hàng loạt này là một động lực quan trọng: từng là một cảng nhỏ vào năm 1585, Amsterdam nhanh chóng nở rộ thành một trong những trung tâm thương mại quan trọng nhất trên thế giới. Sau thất bại của Hạm đội Tây Ban Nha năm 1588, thương mại hàng hải được mở rộng mặc dù thất bại của Hạm đội Anh vào năm sau đã khẳng định uy lực khủng khiếp của hải quân Tây Ban Nha.

Sự trỗi dậy của Hà Lan rất nhanh chóng và đáng chú ý: các thủy thủ Hà Lan đã từng tham gia vào các chuyến đi của Bồ Đào Nha đến phía đông. Năm 1592, Cornelis de Houtman được các thương nhân Hà Lan gửi đến Lisbon, để thu thập thông tin về Quần đảo Gia Vị. Năm 1595, thương nhân và nhà thám hiểm Jan Huyghen van Linschoten, đi Ấn Độ Dương phụng sự Bồ Đào Nha, đã xuất bản một báo cáo ở Amsterdam, "Reys-gheschrift vande navigatien der Portugaloysers in Orienten" ("Báo cáo về hành trình thông qua sự điều hướng của người Bồ Đào Nha ở phía Đông ").[71] Bao gồm các hướng dẫn về cách di chuyển giữa Bồ Đào Nha và Đông Ấn và đến Nhật Bản. Cùng năm đó, Houtman dẫn đầu chuyến thám hiểm đầu tiên của Hà Lan theo chỉ dẫn trong cuốn sách kể trên và đã phát hiện ra một tuyến đường biển mới, đi thẳng từ Madagascar đến Eo biển Sunda ở Indonesia và ký hiệp ước với Quốc vương Banten.

Mối quan tâm của Hà Lan và Anh dẫn đến một phong trào mở rộng thương mại và kiến lập nền tảng của các công ty hiến chương Anh (1600) và Hà Lan (1602). Hà Lan, Pháp và Anh bắt đầu gửi tàu vào vùng biển của Bồ Đào Nha, tập trung chủ yếu ở các khu vực ven biển.[72]

Khai phá Bắc Mỹ

Bản đồ cuộc hành trình 1609–1611 của Henry Hudson đến Bắc Mỹ dưới danh nghĩa của Công ty Đông Ấn Hà Lan (VOC)

Cuộc thám hiểm của Anh năm 1497 do người Venice tên John Cabot (Giovanni Caboto) dẫn đầu là chuyến đầu tiên trong một loạt các sứ mệnh của Pháp và Anh khám phá Bắc Mỹ. Tây Ban Nha không mấy tập trung vào phía bắc châu Mỹ, vì tài nguyên ở Trung và Nam Mỹ dồi dào hơn.[7] Những cuộc thám hiểm này hy vọng sẽ tìm thấy một tuyến Tây Bắc đại dương cho thương mại với châu Á.[7] Con đường đó chưa bao giờ được phát hiện, nhưng nhiều phương án khác đã được phát hiện, và vào đầu thế kỷ XVII, dân định cư từ một số nước Bắc Âu bắt đầu mưu sinh ở bờ biển phía đông Bắc Mỹ. Khoảng năm 1520–1521, João Álvares Fagundes, cùng với các cặp vợ chồng từ Bồ Đào Nha và Azores, khám phá NewfoundlandNova Scotia (có thể đến Vịnh Fundy trên lưu vực Minas [131]) và thành lập một thuộc địa chài lưới tại Mũi Đảo Breton, tồn tại đến đến khoảng năm 1570 hoặc gần cuối thế kỷ này.[73]

Năm 1524, Giovanni da Verrazzano người Ý thám hiểm dưới danh nghĩa vua Francis I của Pháp, sự chia cắt thế giới giữa Bồ và Tây Ban Nha thúc đẩy ông thực hiện chuyến đi này. Verrazzano khám phá Bờ biển Đại Tây Dương của Bắc Mỹ, từ Nam Carolina đến Newfoundland, và là người châu Âu đầu tiên được ghi nhận đến thăm nơi sau này trở thành Thuộc địa Virginia và Hoa Kỳ. Cùng năm, Estevão Gomes, người phác bản đồ Bồ Đào Nha đi theo hạm đội của Ferdinand Magellan, khám phá Nova Scotia, đi thuyền về phía Nam vượt Maine, nơi ông đến cảng New York, sông Hudson và cuối cùng đến Florida vào tháng 8 năm 1525. Từ kết quả của chuyến thám hiểm, bản đồ thế giới năm 1529 của Diogo Ribeiro phác thảo bờ biển phía đông của Bắc Mỹ gần như hoàn hảo. Từ 1534 đến 1536, nhà thám hiểm người Pháp Jacques Cartier, được cho là đã đi cùng Verrazzano tới Nova Scotia và Brazil, là người châu Âu đầu tiên vào nội địa Bắc Mỹ, mô tả Vịnh Saint Lawrence, mà ông đặt tên là "Quốc gia Canada", theo tên người Iroquois, tuyên bố chủ quyền Canada cho Francis I của Pháp.[74][75]

Con tàu của Henry Hudson tên Halve Maen tại Sông Hudson

Người châu Âu bắt đầu khám phá bờ biển Thái Bình Dương vào giữa thế kỷ XVI. Francisco de Ulloa khám phá bờ biển Thái Bình Dương của Mexico ngày nay là Vịnh California, chứng minh rằng Baja California thực chất là một bán đảo.[76] Bất chấp khám phá này, châu Âu vẫn tin rằng California là một hòn đảo. Ghi chép của ông là lần đầu tiên cái tên "California" được sử dụng. João Coleues Cabrilho, hoa tiêu người Bồ Đào Nha phụng sự Vương quốc Tây Ban Nha, là người châu Âu đầu tiên đặt chân đến California, cập bến vào ngày 28 tháng 9 năm 1542 trên bờ vịnh San Diego và tuyên bố California thuộc Tây Ban Nha.[77] Ông cũng tới San Miguel của Quần đảo Channel và đi đến tận Point Reyes. Sau khi ông qua đời, thủy thủ đoàn tiếp tục thám hiểm đến tận phía bắc Oregon.

Chỉ huy hải quân người Anh, Francis Drake đi thuyền dọc bờ biển vào năm 1579 quanh phía bắc nơi Cabrillo hạ chân, vị trí thực của cuộc đổ bộ của Drake vẫn là bí ẩn và chưa được xác định[137][138] Nottand tuyên bố vùng đất này là của Anh,[139] Nova Albion. Do đó, thuật ngữ "Nova Albion" đã được sử dụng trên nhiều bản đồ châu Âu để chỉ định lãnh thổ phía bắc các khu định cư Tây Ban Nha.[78]

Giữa năm 1609 và 1611, sau nhiều chuyến đi thay mặt cho các thương nhân người Anh khám phá Tuyến đường Đông Bắc giả thuyết đến Ấn Độ, Henry Hudson của Vương quốc Anh, dưới sự bảo trợ của Công ty Đông Ấn Hà Lan (VOC), đã khám phá khu vực xung quanh Thành phố New York ngày nay, trong khi tìm kiếm một tuyến đường sang phía tây đến châu Á. Ông đã khám phá sông Hudson và đặt nền móng cho quá trình thuộc địa hóa khu vực của Hà Lan. Chuyến thám hiểm cuối cùng của Hudson đi xa hơn về phía bắc để tìm kiếm hành lang Tây Bắc, dẫn đến việc ông tìm ra Eo biển HudsonVịnh Hudson. Sau khi trú đông ở Vịnh James, Hudson đã cố gắng tiếp tục hành trình vào mùa xuân năm 1611, nhưng thủy thủ đoàn của ông nổi loạn và bỏ ông lại.

Tìm kiếm hải tuyến phía Bắc

Bản đồ của vùng Cực năm 1599 bởi Willem Barentsz trong chuyến hành trình thứ ba của ông

Pháp, Hà Lan và Anh bị bỏ lại trong cuộc đua tìm tuyến đường biển đến châu Á, chỉ có thể qua châu Phi hoặc Nam Mỹ. Khi nhận ra rằng không có con đường nào xuyên qua trái tim của châu Mỹ, họ chuyển sự chú ý tới vùng biển phía bắc, mà người Anh gọi là hành lang Tây Bắc. Mong muốn thiết lập một tuyến đường như vậy đã thúc đẩy phần lớn cuộc thám hiểm châu Âu ở cả hai bờ biển Bắc Mỹ và Nga. Ở Nga, ý tưởng về một con đường biển khả dĩ nối Đại Tây Dương và Thái Bình Dương lần đầu tiên được đưa ra bởi nhà ngoại giao Gerasimov vào năm 1525, mặc dù những người định cư Nga trên bờ Biển Trắng, người Pomors, đã khám phá nhiều phần cảu nơi này ngay từ Thế kỷ XI.

Năm 1553, nhà thám hiểm người Anh Hugh Willoughby cùng với thuyền trưởng Richard Chancellor đã được phái đi cùng với ba tàu của Công ty thương gia thám hiểm đến vùng đất mới Luân Đôn để tìm kiếm hành lang. Trong chuyến hành trình qua Biển Barents, Willoughby cho rằng ông đã nhìn thấy những hòn đảo ở phía bắc và những hòn đảo có tên Willoughby's Land được hiển thị trên bản đồ do Plancius và Mercator xuất bản vào những năm 1640.[141] Hải đoàn bị cản trở bởi "những cơn lốc khủng khiếp" trên biển Na Uy và Willoughby đi vào một vịnh gần biên giới hiện tại giữa Phần Lan và Nga. Các tàu của ông với đoàn thủy thủ bị đóng băng, bao gồm Thuyền trưởng Willoughby và nhật ký của ông, đã được ngư dân Nga tìm thấy một năm sau. Richard Chancellor đã neo đậu ở Biển Trắng và đi tới Moscow diện kiến Sa hoàng Ivan, mở cửa thương mại giữa Nga và Công ty sau này trở thành Công ty Muscovy.

Barentsz khám phá vùng cực Bắc

Ngày 5 tháng 6 năm 1594, nhà vẽ bản đồ người Hà Lan Willem Barentsz khởi hành từ Texel với một hạm đội gồm ba tàu tiên vào Biển Kara, với hy vọng tìm thấy Hành lang Đông Bắc phía trên Siberia.[142] Tại đảo Williams, thủy thủ đoàn lần đầu tiên bắt gặp một con gấu Bắc cực. Họ chật vật để đưa con thú lên thuyền, nhưng con gấu quá hung hăng và phải bị giết. Barentsz đến bờ biển phía tây Novaya Zemlya và theo nó về phía bắc, trước khi bị buộc phải quay trở lại khi phải đối mặt với những tảng băng lớn.

Năm sau, Hoàng tử Maurice xứ Nasau dẫn đầu đoàn thám hiểm mới gồm 6 chiếc thuyền, chứa đầy hàng hóa thương mại mà người Hà Lan hy vọng sẽ dùng để giao dịch với Trung Quốc.[143] Cả nhóm tình cờ gặp "những người hoang dã" Samoyed nhưng cuối cùng phải quay lại khi phát hiện ra biển Kara bị đóng băng. Năm 1596, Quốc hội Hà Lan trao thưởng hậu hĩnh cho bất kỳ ai định hướng thành công Đoạn đường Đông Bắc. Hội đồng thị trấn Amsterdam đã mua và trang bị hai tàu nhỏ, được lái bởi Jan RijpJacob van Heemskerk, để tìm kiếm tuyến đường cổ tích này, dưới sự chỉ huy của Barents. Họ lên đường vào tháng 5, và vào tháng 6 phát hiện ra Đảo BearSpitsbergen, nhìn thấy bờ biển phía tây bắc của nó. Họ nhìn thấy một vịnh lớn, sau này được gọi là Raudfjorden và vào Magdalenefjorden, mà họ đặt tên là Vịnh Tusk, đi lối vào phía bắc của Forlandsundet, mà họ gọi là Keerwyck, nhưng bị buộc phải quay lại vì một bãi cạn. Vào ngày 28 tháng 6, họ đi vòng quanh mũi phía bắc của Prins Karls Forland, nơi họ đặt tên là Vogelhoek, có quần thể chim phong phú, và đi thuyền về phía nam, đi qua IsfjordenBellsund, có tên trên bản đồ của Barentsz là Grooten Inwyck và Inwyck.

Nhóm của Willem Barentsz đụng độ với một con gấu Bắc cực

Các con tàu một lần nữa đến đảo Bear vào ngày 1 tháng 7, dẫn đến sự bất đồng. Họ tách nhau, Barentsz tiếp tục về phía đông bắc, còn Rijp đi về phía bắc. Barentsz đến Novaya Zemlya và, để tránh bị vướng vào băng, hướng đến eo biển Vaigatch nhưng bị mắc kẹt trong các tảng băng trôi và trôi nổi. Bị mắc kẹt, thủy thủ đoàn 16 người đã buộc phải trú đông trên băng. Họ đã sử dụng gỗ xẻ từ tàu để xây dựng một nhà trú tạm mà họ gọi là Het Behouden Huys (Nhà Kept). Đối phó với cái lạnh cực độ, họ đã sử dụng các loại vải buôn làm chăn và quần áo, bắt cáo Bắc Cực bằng bẫy thủ công để ăn. Khi tháng sáu đến, và băng chưa chịu thả con tàu, những người sống sót bị uốn ván đành đưa hai chiếc thuyền nhỏ ra biển. Barentsz chết trên biển vào ngày 20 tháng 6 năm 1597, khi đang nghiên cứu biểu đồ. Phải mất bảy tuần nữa những chiếc thuyền mới đến Kola nơi họ được một tàu buôn Nga cứu giúp. Chỉ còn 12 thuyền viên sống sót, cập cảng Amsterdam vào tháng 11. Hai trong số các thuyền viên của Barentsz sau đó đã xuất bản các nhật ký của họ, Jan Huyghen van Linschoten, người đã đi cùng Barentsz trong hai chuyến đi đầu tiên, và Gerrit de Veer, người đóng vai trò là thợ mộc của con tàu cuối cùng.

Năm 1608, Henry Hudson thực hiện một nỗ lực thứ hai. Ông đến được Novaya Zemlya nhưng buộc phải quay lại. Giữa năm 1609 và 1611, Hudson, sau nhiều chuyến đi thay mặt cho các thương nhân người Anh khám phá tuyến đường biển phía Bắc đến Ấn Độ, đã khám phá khu vực xung quanh thành phố New York hiện đại trong khi tìm kiếm một tuyến đường phía tây đến châu Á dưới sự bảo trợ của Công ty Đông Ấn Hà Lan (VOC).

Úc Hà Lan và New Zealand

Lộ trình của Abel Tasman năm 1642 và 1644 tại New Holland (Úc) dưới danh nghĩa VOC (Công ty Đông Ấn Hà Lan)

Terra Australis Ignota (tiếng Latin, "vùng đất vô danh của miền nam") là một lục địa giả định xuất hiện trên bản đồ châu Âu từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII, bắt nguồn từ một quan niệm mà Aristotle khởi xướng. Nó được mô tả trên bản đồ Dieppe giữa thế kỷ XVI, nơi đường bờ biển của nó xuất hiện ngay phía nam của các hòn đảo Đông Ấn; nó thường được lập biểu đồ công phu, với vô số chi tiết hư cấu. Những khám phá mới đây đã thu hẹp phạm vi tìm kiếm lục địa này; tuy nhiên, nhiều người vẽ bản đồ theo quan điểm của Aristotle, như Gerardus Mercator (1569) và Alexander Dalrymple thậm chí đến tận năm 1767 [144] đã tranh luận về sự tồn tại của nó, với những lập luận kiểu như nên có một vùng đất rộng lớn ở Nam bán cầu như một đối trọng các vùng đất được biết đến ở Bắc bán cầu. Khi những vùng đất mới được phát hiện, chúng thường được coi là một phần của lục địa giả định này.

Juan Fernandez, xuất phát từ Chile năm 1576, tuyên bố ông đã phát hiện ra lục địa phía Nam.[145] Luis Váez de Torres, một hoa tiêu người Galicia phụng sự Vương quốc Tây Ban Nha, đã chứng minh sự tồn tại của một lối đi ở phía nam New Guinea, nay là Eo biển Torres. Pedro Fernandes de Queirós, một hoa tiêu người Bồ Đào Nha phụng sự Vương miện Tây Ban Nha, đã nhìn thấy một hòn đảo lớn ở phía nam New Guinea vào năm 1606, mà ông đặt tên là La Australia del Espiritu Santo. Trên thực tế, đó không phải là Úc mà là một hòn đảo ở Vanuatu ngày nay.

Nhà hàng hải và thống đốc thuộc địa Hà Lan, Willem Janszoon khởi hành từ Hà Lan đến Đông Ấn lần thứ ba vào ngày 18 tháng 12 năm 1603, với tư cách là thuyền trưởng của tàu Duyfken (hay Duijfken, nghĩa là "Chim bồ câu nhỏ"), một trong 12 tàu của hạm đội Steven van der Hagen.[146] Khi ở Ấn Độ, Janszoon được cử đi tìm kiếm các thương điếm thương mại khác, đặc biệt là ở "vùng đất lớn của Nova Guinea và các vùng Đông và Nam khác". Vào ngày 18 tháng 11 năm 1605, Duyfken xuất phát từ Bantam đến bờ biển phía tây New Guinea. Janszoon sau đó băng qua mũi phía đông của Biển Arafura, mà không thấy Eo biển Torres, vào Vịnh Carpentaria. Vào ngày 26 tháng 2 năm 1606, ông đổ bộ xuống sông Pennefather trên bờ phía tây của Cape York ở Queensland, gần thị trấn Weipa hiện đại. Đây là cuộc đổ bộ châu Âu đầu tiên được ghi nhận trên lục địa Úc. Janszoon tiến vào khoảng 320 km (199 dặm) của bờ biển, mà ông nghĩ là một phần mở rộng phía nam của New Guinea. Năm 1615, chuyến đi vòng Mũi Horn của Jacob le Maire và Willem Schouten đã chứng minh rằng Tierra del Fuego là một hòn đảo tương đối nhỏ.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Thời_đại_Khám_phá http://militaryhistory.about.com/od/battleswars140... http://www.fsmitha.com/h3/h17-am.html http://www.goodreads.com/book/show/4820349-amerigo... http://www.history.com/topics/exploration/christop... http://www.infoplease.com/biography/var/bartolomeu... http://www.learnerator.com/ap-european-history/stu... https://books.google.com/books/about/Tratado_das_i... https://archive.org/details/amerigovespuccip0000po... https://archive.org/details/amerigovespuccip0000po... https://archive.org/details/europeandiscover00mori...